lên núi hái chè

Đây là một thời khắc vô cùng lịch sử, bởi nam sinh này đã có đáp án đúng, thay đổi điểm số từ 155 lên 185 điểm, trở thành người dẫn đầu đoàn leo núi. Đến với câu hỏi cuối, Đình Tùng quyết định chọn ngôi sao hy vọng. Nhưng thí sinh này không có câu trả lời đúng. Lúc này, Nguyên Vũ quyết định bấm chuông để nỗ lực giành lại vị trí dẫn đầu. Mà tại Vân Hồng trong tầm mắt, hơn ngoài mười dặm, liên tục trong dãy núi là hùng vĩ nhất mấy ngọn núi, hầu như đều bị mây mù che đậy lấy, chỉ hiển lộ một hai phân chân dung. Tại đây chút đỉnh núi ở giữa, mây mù lượn lờ, mơ hồ có thể thấy được phần đông cung điện, lầu các, lại có tiên thú linh cầm khi thì bay ra, giống như Tiên gia Thánh cảnh. Chia sẻ lên: Giới thiệu công ty. sông, núi này tạo nên vùng châu thổ trù phú với dân cư đông và nhiều sản vật nổi tiếng như: Dâu, mít và đặc biệt là chè xanh biệt là chè xanh Từ xa xưa, người dân vùng này lấy lá chè già tự nhiên để uống (mỗi năm hái được 3 Mùa mưa, anh Mang Văn Đông, 35 tuổi, cùng người dân xã Đông Giang băng rừng hơn 12 km lên núi hái lá bép mang về làm thức ăn. Toà soạn trên độ cao 650 m, thuộc tiểu khu 254, là nơi cung cấp nguồn rau rừng cho đồng bào các xã miền núi. Nơi đây cây rừng rậm rạp, che phủ Việt Nam có tới 35 tỉnh trồng chè, phần nhiều tập trung ở vùng trung du miền núi phía Bắc, Bắc Trung Bộ và Tây Nguyên. Trong đó chè Suối Giàng, Hà Giang, Tà Xùa, Trà Shan Tuyết Tiên Thiên ở Tả Thàng là 4 vùng được đánh giá là ngon nhất và lớn nhất cả nước với bạt ngàn những rừng trà cổ thụ. Bảng giá trà Shan Tuyết cổ thụ cao cấp tại Hà Nội Mon Ex Est Sur Des Sites De Rencontre. Rủ nhau lên núi hái chè Rủ nhau lên núi hái chè Hái năm ba ngọn, xuống khe ta ngồi Ta ngồi ta bắt con ốc lặn Bắt con ốc lội, ta đem lên bờ Ta đập đánh chát Ta hút đánh chụt Ta lên trên ngàn hái nắm rau mơ Ta lên trên bờ hái lá rau răm Cùng thể loại Trẩu trẩu trầu trầu Trẩu trẩu trầu trầu Mày làm chúa tao Tao làm chúa mày Tao không hái ngày Thì tao hái đêm Nôm na là cha mách qué Nôm na là cha mách qué Mách qué là mẹ mách xiên Mách qué là mẹ mách xiên Ta cho đồng tiền, mách nữa ta nghe. Ông trẳng ông trăng Ông trẳng ông trăng Xuống chơi với tôi, Có bầu có bạn, Có bát cơm xôi, Có nồi cơm nếp, Có nệp bánh chưng, Có lưng hũ rượu, Có khướu đánh đu, Thằng cu vỗ chài, Bắt trai bỏ giỏ, Cái đỏ ẵm em, Đi xem đánh cá, Có rá vo gạo, Có gáo múc nước, Có lược chải đầu, Có trâu cày ruộng, Có muống thả ao, Ông sao trên trời. Ông giẳng ông giăng Ông giẳng ông giăng Ông giằng búi tóc, Ông khóc ông cười, Mười ông một cỗ, Đánh nhau lỗ đầu, Đi cầu nhà huyện, Đi kiện nhà quan, Đi bàn nhà phủ, Một lũ ông già, Mười ba ông điếc, Con hiệc hai chân, Đưa giăng về giời. Úp chén úp dĩa Úp chén úp dĩa Dĩa ngu dĩa ngốc Con cóc cụt đuôi Ở bờ ở bụi Ai nuôi mày lớn, Dạ thưa thầy, con lớn mình ên. Buổi mai ngủ dậy Buổi mai ngủ dậy Ra tắm bể Đông Đạp cây xương rồng Kéo lên chín khúc Gặp mệ bán cá úc Đổ máu đầu cầu Gặp mệ bán dầu Dầu trơn lầy lẫy Gặp mệ bán giấy Giấy mỏng tanh tanh Gặp mệ bán chanh Chanh chua như dấm Gặp mệ bán nấm Nấm lại một tai Gặp mệ bán khoai Khoai lọi một cổ … Ù à ù ập Ù à ù ập Nước chảy tràn ngập Cả vũng chân trâu Chị đỏ đi đâu? Đi cày đi cấy Bắt được con bấy Đem về nấu canh Băm tỏi băm hành Xương sông lá lốt Băm cho đầy thớt Nấu cho đầy nồi Đặt lên vừa sôi Bắc xuống vừa chín Chàng về chàng hỏi Được mấy bát canh? Tôi chiềng với anh Được ba bốn bát Đừng có xáo xác Mà xóm giềng nghe Để ra ăn de Được ba bốn bữa. Đối đáp – Trọc gì ? – Trọc đầu. – Đầu gì? – Đầu tàu. – Tàu gì? – Tàu hoả. – Hoả gì? – Hoả tốc. – Tốc gì? – Tốc hành. – Hành gì? – Hành củ. – Củ gì? – Củ khoai. – Khoai gì? – Khoai lang. – Lang gì? – Lang trọc. – Trọc gì? – Trọc đầu. Một con cua, đua vô hang Một con cua, đua vô hang Hai cái càng và tám cái que Hai con cua, đua vô hang Bốn cái càng, mười sáu cái que Mỏ gà thời tròn Mỏ gà thời tròn Mỏ vịt thời dẹt Vịt kêu cạc cạc Gà gáy te te Ai thức thời nghe Ai ngủ thời chớ Có cùng từ khóa An Tử có đất trồng chè An Tử có đất trồng chè, Chồng gọi, vợ bảo cái gì hắn kia? Chim khôn mắc bẫy vì người Chim khôn mắc bẫy vì người Ốc khôn ốc cũng vì mồi chết oan Ta về hái nắm sắn non Rau sấm rau sét bẫy con ốc lồi – Chim khôn chết mệt vì mồi Anh đây chết chắc vì người đa đoan Người đa đoan lòng dạ đa đoan Như con thuyền bắt ốc lắm nan ít hồ Đồng triều lắm ốc sóng to Thuyền anh trôi dạt sang nhờ thuyền em Hóa thành con ốc đồng chiêm Cái thân mốc thếch như thuyền chở phân? – Trông lên núi Ốc xây vần Cớ sao Ốc lại hóa thành núi cao? Ốc đồng nào, ốc ngon, ốc béo? – Ốc đồng nào, ốc ngon, ốc béo? Đam đồng nào, đam béo, đam ngon? Anh trả lời được vẹn toàn Tiện thuyền chèo lái gái son theo về! – Ốc béo thì có đồng Quan Đồng Chùa thì có đam ngon bốn mùa Vân vi anh có lời thưa Sẵn thuyền tiện nước anh đưa em về! Anh ơi gà đã gáy dồn Anh ơi gà đã gáy dồn, Dậy đi xúc ốc đồng Tròn, đồng Quang, Rổ sề, rổ sảo, rổ sàng Vợ bưng, chồng gánh kịp hàng chợ phiên Buộc lưng con ốc mà treo Buộc lưng con ốc mà treo Ai làm con ốc quăn queo thế này Đố ai uốn ốc cho ngay Cá giếc nấu với rau răm Cá giếc nấu với rau răm Anh ăn một bát tối anh nằm khỏi ngủ quên Nam mô một bồ dao găm Nam mô một bồ dao găm Một trăm giáo mác Một vác dao bầu Một xâu thịt chó Một lọ mắm tôm Một ôm rau húng Một thúng rau răm Ai về Cái Cá hái lá rau mơ Ai về Cái Cá hái lá rau mơ Thương em chín đợi mười chờ Biết người có đáp lại hay hững hờ với ai? Rau răm ngắt ngọn còn tươi Rau răm ngắt ngọn còn tươi Những nơi lịch sự thì trời không xe Những nơi chết rấp bờ tre Trái duyên trái số trời xe duyên vào Tiếc thay ba vuông nhiễu đào Áo gấm không vá, vá vào áo tơi Bực mình thiếp lắm chàng ơi Rau răm ngắt ngọn héo rầu Rau răm ngắt ngọn héo rầu Những lời anh nói mà đau đớn lòng Bấy lâu xe sợi chỉ hồng Nghĩ em lấy được con tông nhà nòi Bây giờ em đã hai mươi Sao anh không nhớ những lời ngày xưa Chè Cũng gọi là trà, tên chung của một số loại cây được trồng lấy lá nấu thành nước uống. Một loại có thân mọc cao, lá lớn và dày, có thể hái về vò nát để nấu uống tươi, gọi là chè xanh. Loại thứ hai là chè đồn điền du nhập từ phương Tây, cây thấp, lá nhỏ, thường phải ủ rồi mới nấu nước, hiện được trồng ở nhiều nơi, phổ biến nhất là Thái Nguyên và Bảo Lộc thành một ngành công nghiệp. Đồi chè Thái Nguyên Mơ Còn gọi là mơ lông, một loại dây leo bằng thân quấn, sống nhiều năm. Toàn cây có lông mềm, nhất là thân, cành và lá non. Lá vò nát, có mùi khó ngửi, nên cũng có tên là thúi địt hoặc rắm chó. Lá mơ thường được dùng làm thuốc, và là gia vị không thể thiếu trong món thịt chó. Lá mơ Rau răm Một loại cây nhỏ, lá có vị cay nồng, được trồng làm gia vị hoặc để ăn kèm. Rau răm Trầu Còn gọi là trầu không, một loại dây leo dùng làm gia vị hoặc làm thuốc. Lá trầu được nhai cùng với vôi tôi hay vôi sống và quả cau, tạo nên một miếng trầu. Ở nước ta có hai loại trầu chính là trầu mỡ và trầu quế. Lá trầu mỡ to bản, dễ trồng. Trầu quế có vị cay, lá nhỏ được ưa chuộng hơn trong tục ăn trầu. Người xưa có phong tục mời ăn trầu khi gặp nhau. Trầu cau tượng trưng cho tình yêu đôi lứa, vợ chồng, nên là một lễ vật không thể thiếu trong các dịp cưới hỏi. Lá trầu không Một miếng trầu Nghe nghệ sĩ nhân dân Thu Hiền hát bài Hoa cau vườn trầu. Bánh chưng Một loại bánh truyền thống của dân tộc ta, làm từ gạo nếp, đậu xanh, thịt lợn, lá dong. Bánh thường được làm vào các dịp Tết cổ truyền của dân tộc Việt và ngày giổ tổ Hùng Vương, nhằm thể hiện lòng biết ơn của con cháu đối với cha ông và đất trời xứ sở. Theo quan niệm phổ biến hiện nay, cùng với bánh giầy, bánh chưng tượng trưng cho quan niệm về vũ trụ của cha ông ta. Bánh chưng Khướu Loại chim nhỏ, lông dày xốp, thường có màu xỉn, cánh tròn, chân khỏe và cao, thích nghi với việc di chuyển trên mặt đất và các cành cây. Chim khướu có nhiều loài khác nhau, có tiếng hót hay và vang xa nên thường được nuôi làm cảnh. Chim khướu Chài Loại lưới hình nón, mép dưới có chì, chóp buộc vào một dây dài, dùng để quăng xuống nước chụp lấy cá mà bắt. Việc đánh cá bằng chài cũng gọi là chài. Vãi chài trên dòng Nậm Hạt Đỏ Con gái phương ngữ Bắc Bộ. Giăng Trăng phương ngữ Bắc Bộ. Lòng tôi không giăng gió Nhưng gặp người gió giăng Khúc hát - Lưu Quang Vũ Tỉnh, sứ, huyện, nha Các cơ quan hành chính từ cao xuống thấp thời trước. Hai câu này có thể diễn đạt là từ tỉnh, sứ đến huyện, nha. Phủ Tên gọi một đơn vị hành chính thời xưa, cao hơn cấp huyện nhưng nhỏ hơn cấp tỉnh. Đứng đầu phủ gọi là quan phủ, cũng gọi tắt là phủ. Giời Trời phương ngữ Bắc và Bắc Trung Bộ. Mình ên Một mình, đơn độc phương ngữ Nam Bộ. Mệ Bà cụ già, mẹ phương ngữ Bắc Trung Bộ. Cá úc Một loài cá da trơn, chủ yếu sống ngoài biển, một số sống trong môi trường nước lợ hay ngọt, thường thấy ở khu vực ôn đới ấm và nhiệt đới. Cá úc được chế biến thành nhiều món đặc sản Nam Bộ. Cá úc Lọi Gãy lìa phương ngữ. Cổ Củ phương ngữ Trung Bộ. Bấy Cua mới lột xác, vỏ còn mềm phương ngữ Bắc và Bắc Trung Bộ. Xương sông Loài cây có thân thẳng đứng, cao khoảng một mét hoặc hơn. Lá thuôn dài, mép có răng cưa, có mùi hơi hăng của dầu. Lá xương sông là một loại rau gia vị phổ biến, và cũng là vị thuốc chữa bệnh đường hô hấp, cảm cúm... Lá xương sông Lá lốt Một loại cây cho lá có mùi thơm đặc trưng, thường được dùng làm gia vị hoặc làm thuốc. Trong số các món ăn có lá lốt, đặc sắc nhất phải kể đến bò nướng lá lốt. Ở một số địa phương Nam Bộ, loại cây này cũng được gọi là lá lốp. Lá lốt Chiềng Trình, trình bày từ cổ. Xáo xác Xào xạc, lao xao. Thời Thì. Xưa vì kị húy vua Tự Đức Nguyễn Phúc Thì nên chữ này được đọc chạnh đi thành "thời." An Tử Tên một thôn nay thuộc xã Khởi Nghĩa, huyện Tiên Lãng, thành phố Hải Phòng. Đa đoan Lắm mối, lắm chuyện lôi thôi, rắc rối. Cơ trời dâu bể đa đoan, Một nhà để chị riêng oan một mình Truyện Kiều Nan Thanh tre hoặc nứa vót mỏng, dùng để đan ghép thành các đồ gia dụng như nong nia, thúng mủng... Đan nan cót Đồng triều Cánh đồng ở vùng đất ngập nước ven biển, hình thành từ bùn do sông và thuỷ triều mang tới. Đồng triều chủ yếu được dùng để nuôi trồng thủy hải sản. Chiêm Lúa hay hoa màu gieo cấy ở miền Bắc vào đầu mùa lạnh, khô tháng mười, tháng mười một và thu hoạch vào đầu mùa nóng, mưa nhiều tháng năm, tháng sáu, phân biệt với mùa. Đây cũng là cách gọi tắt của "lúa chiêm." Theo sách Vân Đài Loại Ngữ của Lê Quý Đôn, người Việt trước đây đã học cách trồng một số giống lúa gieo vào mùa đông, thu hoạch vào mùa hạ từ người Chiêm Thành, nên gọi là lúa chiêm hay lúa chăm. Cấy lúa chiêm Núi Ốc Tên chữ là Ốc Sơn, còn gọi là Cô Sơn, một ngọn núi nay thuộc địa phận xã Hà Phong, huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa. Gọi như vậy vì trông xa núi có hình dáng giống một con ốc lồi khổng lồ. Dam Còn gọi là dam, tên gọi ở một số địa phương Bắc Trung Bộ của con cua đồng. Cua đồng Đồng Quan, đồng Chùa Hai cánh đồng thuộc địa phận xã Hà Lâm, nay là xã Yến Sơn, huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa. Vân vi Đầu đuôi câu chuyện, đầu đuôi sự tình từ cũ. Đồng Tròn, đồng Quang Tên hai cánh đồng thuộc nay thuộc địa phận Bái Đô, Đô Mỹ, xã Hà Tân, huyện Hà Trung, Thanh Hóa. Sề Đồ đan mắt thưa, nan thô, rộng, to hơn rổ, thường dùng đựng bèo, khoai... Xảo Đồ đan bằng tre tương tự như giần nhưng có mắt thưa hơn nhiều, thường dùng để lọc lấy thóc và loại bỏ rơm rác. Động tác dùng xảo cũng gọi là xảo. Sàng Đồ đan bằng tre, hình tròn, lòng nông, có lỗ nhỏ và thưa, thường dùng để làm cho gạo sạch thóc, trấu và tấm. Hành động dùng cái sàng mà lắc cho vật vụn rơi xuống, vật to còn lại cũng gọi là sàng. Sàng gạo Chợ phiên Chợ họp có ngày giờ nhất định. Cá giếc Loại cá trắng nước ngọt, mắt có viền đỏ, thân dẹt hai bên, có màu bạc, sống phổ biến ở ao hồ, ruộng vùng đồng bằng hay vùng cao. Thịt thơm ngon nhưng nhiều xương dăm. Ngoài những món chế biến thông thường, cá giếc còn là một món ăn bài thuốc. Cá giếc Bồ Đồ cỡ lớn đựng thóc lúa, thường đan bằng tre. Bồ và cối xay thóc Mác Một loại vũ khí cổ, có lưỡi dài và sắc, cán dài, có thể dùng để chém xa. Dao bầu Loại dao to, mũi nhọn, phần giữa phình ra, thường dùng để chọc tiết lợn, trâu bò. Dao bầu Mắm tôm Một loại mắm ở miền Bắc, được làm chủ yếu từ tôm hoặc moi một loại tôm nhỏ và muối ăn, qua quá trình lên men tạo mùi vị và màu sắc rất đặc trưng. Mắm tôm thường có ba dạng đặc, sệt và lỏng. Ba dạng này chỉ khác nhau ở tỉ lệ muối và quá trình phơi nắng. Trước khi sử dụng, mắm tôm thường được pha với chanh và ớt. Mắm tôm đã pha Rau húng Tên chung cho một số loài rau thuộc họ Bac Hà. Rau húng có nhiều loài, tên gọi mỗi loài thường chỉ mùi đặc trưng hay cách sinh trưởng của cây như húng quế miền Nam gọi là rau quế có mùi quế, húng chanh miền Nam gọi là rau tần dày lá có mùi tương tự chanh, húng lủi vì cây rau bò sát mặt đất... Ở miền Trung và miền Nam, một số loài húng được gọi tên là é. Rau húng là gia vị đặc sắc và không thể thiếu trong các món ăn dân gian như nộm, dồi, lòng lợn, tiết canh, thịt vịt, phở, bún... Tinh dầu trong lá và ngọn có hoa của một số loại húng được có tác dụng chữa bệnh ví dụ húng chanh trị ho hoặc dùng làm nguyên liệu sản xuất hương phẩm. Ở miền Nam, người ta lấy hạt húng quế hạt é làm nước uống giải nhiệt. Làng Láng thuộc Thăng Long xưa là nơi nổi tiếng với nghề trồng rau húng lủi, gọi là húng Láng. Húng lủi húng Láng Cái Cá Một địa danh nay thuộc phường 1, thành phố Vĩnh Long, nằm bên dòng sông Cổ Chiên. Tại đây có các địa danh liên quan như xóm Cái Cá, cầu Cái Cá, họ đạo Cái Cá... Nhiễu Hàng dệt bằng tơ, sợi ngang xe rất săn, làm cho mặt nổi cát. Xe chỉ Xe là động tác xoắn sợi để tạo nên hiệu ứng theo yêu cầu công việc, hoặc là xoắn rồi gập đôi lại để có một sợi to hơn, chắc hơn, hoặc xoắn bện giữa hai, ba sợi với nhau, hoặc xe từ bông vải để thành sợi chỉ, hoặc xe vuốt cho đầu sợi chỉ đang xòe bung trở thành thuôn nhỏ để luồn kim... Nghe bài dân ca Xe chỉ luồn kim. Cùng mục Tin Tức của khám phá Rap Lên Núi Hái Chè – Trang tổng hợp các món chè 2023 hot nhé! Contents1 Rap Lên Núi Hái Chè – Trang tổng hợp các món chè 2023 2 Hôm qua lên núi hái chè3 Độc đáo Thiếu nữ hái chè và thằng phải gió Rap Lên Núi Hái Chè có phải là thông tin đang được bạn quan tâm tìm hiểu? Website Tạp Chí Hoa Lan sẽ giới thiệu cho bạn những thông tin mới nhất chính xác nhất về Rap Lên Núi Hái Chè trong bài viết này nhé! Bạn đang xem video Láo Soái Nhi rap Chung Tình mới nhất trong danh sách Thông tin món ăn được cập nhật từ kênh Tạ Thị Khỉ từ ngày 2017-05-28 với mô tả như dưới đây. Láo Soái Nhi rap Chung TìnhFb của mình của láo soái nhi lên cctalk room 313,911 hàng ngày để nghe chị Láo hát nha!!! ủng hộ mk nha!!!Thks For Watching……………. Hôm qua lên núi hái chè Vùng chè Thái Nguyên có nhiều vùng chè được trồng trên đồi núi và công việc thu hoạch, hái chè chủ yếu do phụ nữ làm, do đó mà có những câu ca dao khuyên nhủ các cô gái khi đi hái chè. Đôi khi, đi hái chè ở vùng trống vắng lại gặp phải những rủi ro rất tình cờ Hôm qua lên núi hái chè Gặp thằng phải gió nó đè em ra Em lạy mà nó chẳng tha Nó đem đút cái mả cha nó vào Bấy giờ em biết làm sao ? Nếu em càng giẩy nó vào thêm sâu Cái gì như thể củ nâu Cái gì như cái cần câu vật vờ Đoạn ca dao trên là lời tự thuật của một cô gái hái chè về sự cố bị một thằng thanh niên nào đó cưỡng hiếp, thay vì oán giận người đã cướp đi cái trinh tiết qúy giá của mình. Cô hái chè này lại có thái độ đỏng đảnh khi kể lại các tình tiết diễn biến Hôm qua em đi hái chè Gặp thằng phải gió nó đè em ra Đọc hai câu mở, ta có cảm tưởng như cô gái kể về một câu chuyện thường nhật như Hôm qua đi chợ, đi chơi hội….., nhất là chữ “thằng phải gió” được dùng ở đây như một tiếng trách yêu. Em lạy mà nó chẳng tha Nó đem đút cái mả cha nó vào Độc đáo Thiếu nữ hái chè và thằng phải gió Đến đây, ta thấy “sự phản kháng” này rất tiêu cực, sao chỉ lạy suông thôi mà không tỏ thái độ quyềt liệt hơn như cào cấu, cắn xé… Chữ “mả cha nó” là một tiếng chửi trong ngôn ngữ bình dân nhưng nếu dùng để ám chỉ cái “ấy” thì thật là hay vô cùng, nghe như một tiếng mắng yêu. Thiếu nữ hái chè và thằng phải gió thật thú vị. Bấy giờ em biết làm sao ? Nếu em càng giẩy nó vào thêm sâu Đến đây, cô gái biện hộ cho sự phản kháng yếu ớt của mình, càng giẫy thì càng không lợi nên đành tiêu cực cam phận nằm im Cái gì như thể củ nâu Cái gì như cái cần câu vật vờ Hai câu này mới đọc tưởng như hai câu ngô nghê của đoạn ca daọ Nhưng khi đọc kỹ lại ta mới thấy cái thâm thúy của người xưa. Chữ “củ nâu” tức củ ấu dùng để so sánh một vật sần sùi cứng ngắt, chữ vật vờ để chỉ một trạng thái xập xìu. Như vậy đoan này đã ngầm tả trạng thái thụ động tiêu cực từ đầu đến đuôi kèm theo những nhận xét tinh tế của cô gái. Chính vì cái tâm lý tương phản đó mà có những đoạn ca dao “Hậu Bản” lưu truyền Hôm sau em đến vườn chè Kiếm thằng phải gió em đè nó ra Nó lạy rối rít xin tha Nhưng em cứ đút mả cha nó vào Giời ơi mới sướng làm sao Nên em càng giẩy cho vào thêm sâu Giẩy sao cho dập củ nâu Giẩy sao cho gẫy cần câu vật vờ Chi tiết thông tin cho Thiếu nữ hái chè và thằng phải gió… Tuyển chọn một số ít bài thơ chế lên núi hai chè vui và hai hước. Tuy nhiên có hơi bậy một chút ít nên mọi người có gì thì thông cảm nha ^ + ^. Chúc mọi người có những phút giây thư giãn giải trí . Hôm qua lên núi hái chè Gặp thằng khốn nạn nó đè em ra Áo em nó xé làm ba Vú em nó bóp như kèn xe tăng Hôm qua xuống ruộng hái chanh Được thằng tử tế nó bành em ra Làm xuôi làm ngược tan tành Làm xong còn hỏi học hành ở đâu? Già mà vẫn ham vui, vui nên chẳng thấy già Mả cha nó cứng như sào Nó khua nó khoắng nó bào em ra Em rằng vừa giãy vừa la Nhưng càng giẫy giụa, “nó” càng vào sâu Ban đầu em thấy hơi đau Về sau lại thấy vừa đau vừa buồn Đè em được một lúc lâu Cái thằng phải gió đi đâu mất “hình” Hôm sau em lên núi rình Mong thằng phải gió nó lại.. lình xình với em ^^ * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * CÔ GÁI HÁI CHÈ Chính bản Hôm qua em đi hái chè Gặp thằng phải gió nó đè em ra Em lạy mà nó chẳng tha Nó đem đút cái mả cha nó vào Bấy giờ em biết làm sao ? Nếu em càng giãy, nó vào thêm sâu Cái gì như thể củ nâu Cái gì như cái cần câu vật vờ * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * CÔ GÁI HÁI CHÈ Hậu bản Hôm sau em đến vườn chè Kiếm thằng phải gió, em đè nó ra Nó lạy rối rít xin tha Nhưng em cứ đút mả cha nó vào Bây giờ mới sướng làm sao Nên em càng giãy cho vào thêm sâu Giãy sao cho dập củ nâu Giãy sao cho gãy cần câu vật vờ * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * CÔ GÁI HÁI CHÈ Mười năm tái ngộ Mười năm thắm thoát trôi qua Gặp lại Phải Gió nó già hơn xưa Mừng như nắng hạn gặp mưa Em đè nó xuống em lừa chim ra Nó nằm nó khóc nó la Em ngồi em bóp mả cha ngày nào Khi xưa củ cứng cần cao Ngày nay củ xẹp cần đau cần xìu THẰNG PHẢI GIÓ THAN THỞ Sáng nay ngồi nấu nước chè Nhớ lại chuyện cũ, nó đè trong tim Ngồi buồn ngó xuống con chim Xưa sao hùng dũng, giờ… im thế này Lắc qua lắc lại… mỏi tay Nó vẫn ủ rũ, ngây ngây khờ khờ… Hỡi người em gái xóm mơ Cần câu còn đó, mồi trơ… hết rồi Hôm qua em đi hái chè Gặp thằng phải gió nó đè em ra Em lạy mà nó chẳng tha Nó đem đút cái mả cha nó vào Bây giờ em biết làm sao Nếu em càng giẫy nó càng sâu thêm Cái gì như thể củ nâu Về nhà tức giận chửi thề một câu Sao nó địt quá là mau Mả cha đút dở để sầu cho tôi Bây giờ em lại lên đồi Chè em không hái, em ngồi đợi cu Nếu chơi em bắt địt bù Không được tiếng rưỡi, em thù hai năm Hôm nay em đến vườn chè Gặp thằng phải gió em đè nó ra Nó lạy rúi rít xin tha Nhưng em cứ đút mả cha nó vào Bây giờ mới sướng làm sao Nên em càng giẫy cho vào sâu thêm Giẫy sao cho dập củ nâu Giẫy sao cho gẫy cần câu lờ đờ Hôm nay mẹ dặn hái chè Nhớ chọn lá tốt đừng nhè lá sâu Hôm qua sao có lông trâu Lẫn vào chè búp làm rầu lòng bu Hôm qua thằng đó nứng cu Lá chè đổ xuống ,nhảy dù giữa nương Địt xong vơ vội, vơ vàng Lá chè có lẫn lông chàng ,lông tôi Ruột gan bỗi hỗi, bồi hồi Hơi đâu còn sức mà ngồi nhặt lông Tưởng rằng cứ vậy là xong Ai ngờ mẹ thấy bảo rằng lông trâu Mẹ bảo bảy chục tuổi đầu Hái chè đâu có lông trâu lông bò Chè xanh hết lá trơ cành Ngày nào củng hái, búp cành đâu ra Thôi đành dạo gót vườn hoa Biết đâu lại gặp mả cha đút vào Tối về đi tiểu sau hè Gặp thằng phải gió đứng tè gốc cây Em bảo mầy chạy lại đây Để cho tao đút khúc cây mầy vào Điều hướng bài viết Câu ca dao Thiếu nữ hái chè và thằng phải gió là một câu thơ mang tính phồn thực, phản ánh một cái nhìn hài hước lưu truyền ở vùng chè Thái Nguyên. Hôm qua lên núi hái chè Vùng chè Thái Nguyên có nhiều vùng chè được trồng trên đồi núi và công việc thu hoạch, hái chè chủ yếu do phụ nữ làm, do đó mà có những câu ca dao khuyên nhủ các cô gái khi đi hái chè. Đôi khi, đi hái chè ở vùng trống vắng lại gặp phải những rủi ro rất tình cờ Hôm qua lên núi hái chè Gặp thằng phải gió nó đè em ra Em lạy mà nó chẳng tha Nó đem đút cái mả cha nó vào Bấy giờ em biết làm sao ? Nếu em càng giẩy nó vào thêm sâu Cái gì như thể củ nâu Cái gì như cái cần câu vật vờ Đoạn ca dao trên là lời tự thuật của một cô gái hái chè về sự cố bị một thằng thanh niên nào đó cưỡng hiếp, thay vì oán giận người đã cướp đi cái trinh tiết qúy giá của mình. Cô hái chè này lại có thái độ đỏng đảnh khi kể lại các tình tiết diễn biến Hôm qua em đi hái chè Gặp thằng phải gió nó đè em ra Đọc hai câu mở, ta có cảm tưởng như cô gái kể về một câu chuyện thường nhật như Hôm qua đi chợ, đi chơi hội….., nhất là chữ “thằng phải gió” được dùng ở đây như một tiếng trách yêu. Em lạy mà nó chẳng tha Nó đem đút cái mả cha nó vào Độc đáo Thiếu nữ hái chè và thằng phải gió Đến đây, ta thấy “sự phản kháng” này rất tiêu cực, sao chỉ lạy suông thôi mà không tỏ thái độ quyềt liệt hơn như cào cấu, cắn xé… Chữ “mả cha nó” là một tiếng chửi trong ngôn ngữ bình dân nhưng nếu dùng để ám chỉ cái “ấy” thì thật là hay vô cùng, nghe như một tiếng mắng yêu. Thiếu nữ hái chè và thằng phải gió thật thú vị. Bấy giờ em biết làm sao ? Nếu em càng giẩy nó vào thêm sâu Đến đây, cô gái biện hộ cho sự phản kháng yếu ớt của mình, càng giẫy thì càng không lợi nên đành tiêu cực cam phận nằm im Cái gì như thể củ nâu Cái gì như cái cần câu vật vờ Hai câu này mới đọc tưởng như hai câu ngô nghê của đoạn ca daọ Nhưng khi đọc kỹ lại ta mới thấy cái thâm thúy của người xưa. Chữ “củ nâu” tức củ ấu dùng để so sánh một vật sần sùi cứng ngắt, chữ vật vờ để chỉ một trạng thái xập xìu. Như vậy đoan này đã ngầm tả trạng thái thụ động tiêu cực từ đầu đến đuôi kèm theo những nhận xét tinh tế của cô gái. Chính vì cái tâm lý tương phản đó mà có những đoạn ca dao “Hậu Bản” lưu truyền Hôm sau em đến vườn chè Kiếm thằng phải gió em đè nó ra Nó lạy rối rít xin tha Nhưng em cứ đút mả cha nó vào Giời ơi mới sướng làm sao Nên em càng giẩy cho vào thêm sâu Giẩy sao cho dập củ nâu Giẩy sao cho gẫy cần câu vật vờ

lên núi hái chè